chất liệu văn hóa dân gian trong đất nước

Đặc sắc, độc đáo nghệ thuật đoạn trích Đất Nước cảm nhận đất nước. .. thơ từ chất liệu văn hoá, văn học dân gian gần gũi ấy, nhân dân, ca ngợi sắc văn hoá người Việt Nam Chất liệu văn hoá dân gian Đất Nước gắn với thần thoại, truyền thuyết truyện Mở bài 1: “ Đất nước ” là một đề tài cao đẹp nhất của văn học kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca “ Mặt đường khát vọng ” – 1974 đã có một khám phá thật mới Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng pháp luật trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và sẽ được cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 4. Đóng góp ý kiến vào quá trình sửa đổi luật, ThS.Luật sư Đỗ Anh Thắng – Giám đốc Công ty Luật ASEM Việt Nam chỉ ra rằng, vấn - Sử dụng chất liệu dân gian: văn hoá dân gian, văn học dân gian - Sự vận dụng sang tạo: thường chỉ gợi ra bằng vài chữ của câu ca dao, một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, truyện cổ tích. - Kết hợp giữ chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc. IV. Ý (8,0 điểm) Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ. Từ việc cảm nhận về đoạn thơ Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Rencontres Francophones Sur La Qualité Et La Mesure. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa văn học dân gian là đưa yếu tố văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo vào trong tác phẩm. Để làm được điều này một cách tự nhiên, nhuần nhị, hấp dẫn là điều không hề dễ dàng. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều đó. Đọc “Đất Nước”, ta thấy có những yếu tố của thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt của dân ta gắn với những hình ảnh quen thuộc như miếng trầu, bới tóc, cái kèo, cái cột, hạt gạo. Những chất liệu ấy được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất đa dạng và sáng tạo trong “ Đất Nước”. Điểm sáng tạo của nhà thơ khi vận dụng chất liệu là tác giả thường chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích mà giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh của một Đất Nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hóa lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống của mỗi người. 1. Điểm đầu tiên phải kể đến trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là vận dụng ca dao, tục ngữ một cách nhuần nhị. Mở đầu đoạn trích, tác giả đi lí giải về cội nguồn sinh ra đất nước. đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không được tạo nên bởi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo nên bởi những gì gần gũi nhất. Đó là tình nghĩa thuỷ chung son sắt của cha mẹ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Câu thơ được lấy ý từ câu ca dao Tay bưng chén muối đĩa gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thủy chung, son sắt của người Việt Nam. Đất nước ta gắn với nền văn minh lúa nước từ xa xưa . Bởi vậy, giải thích nguồn cội của đất nước nhà thơ không thể không nhắc đến hình ảnh cây lúa, hạt gạo "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng". Hình ảnh thơ gợi cuộc sống lam lũ, tảo tần. Để làm ra hạt gạo trắng thơm, người nông dân phải đổ biết bao mồ hôi công sức một nắng hai sương. Phảibán mặt cho đất, bán lưng cho giời, phải trải qua nhiều công đoạn xay, giã, dần, sàng mới có được thành quả. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến bài ca dao "Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần." Khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với hình ảnh của một đất nước không hề xa lạ. Nó chính là nơi nảy nở của tình yêu lứa đôi khi mỗi người đến tuổi trưởng thành "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" Ý thơ được lấy từ bài ca dao quen thuộc nói "Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai…" Tình yêu đi liền với nó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ chính là thước đo của tình yêu . Khi yêu nhau, gần nhau người ta cũng nhớ, xa nhau thì càng thấy nhớ thương da diết, cồn cào, cháy bỏng. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo bài ca dao Khăn thương nhớ ai.. để đem đến cho câu thơ một cảm nhận mới mẻ về nỗi nhớ trong tình yêu. Đất Nước trong định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với không gian nhỏ bé gần gũi là nơi anh đến trường, là bến nước nơi em tắm . Mà hình ảnh đất nước còn gắn với không gian rộng lớn mênh mông của rừng vàng, biển bạc "Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” "Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Câu thơ được nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình- Trị- Thiên quen thuộc "Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi". Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dị của quê hương, xứ sở mình. Thật tự hào thay, quê hương mình lúc nào cũng trù phú, giàu đẹp “ rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu” Hồ Chí Minh Lịch sử nước ta là lịch sử của các vua hùng dựng và giữ nước . Từ xưa đến nay, mỗi người dân đất Việt luôn ý thức sâu sắc về nguồn cội của mình. Vì vậy, dù có đi đâu về đâu cũng không quên nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương "Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên là điều ta không bao giờ có thể quên. Vì vậy, Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn từ bao đời nay của dân mình. Ca dao xưa cũng từng nhắc nhở ta "Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba". Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra biết bao vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người Việt ta từ xa xưa. Đó là những con người yêu say đắm, thủy chung "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi " Ý thơ được lấy từ câu ca dao quen thuộc "Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru". Từ ca dao, nhà thơ cũng khám phá ra vẻ đẹp của những con người biết quý trọng lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ sự khó nhọc, gian nan "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội" Ca dao xưa cũng nói về những con người như thế "Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng". Qua ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cũng phát hiện ra phẩm chất bền bỉ kiên cường, quyết liệt trong chiến đấu, trong công cuộc dựng và giữ nước của cha ông ta "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu". Như vậy có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng một cách sáng tạo ca dao, tục ngữ tạo nên những vần thơ thơ mượt mà đằm thắm, trữ tình, thiết tha. 2. Điểm thứ hai trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là đưa truyền thuyết, truyện cổ tích vào ý thơ một cách tự nhiên. Nguyễn Khoa Điềm không dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, cũng không dùng cách nói trang trọng để giải thích về nguồn cội của đất nước, mà tác giả đã chọn một cách nói dung dị nhưng thấm thía. "Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể" Đất nước có từ “ngày xửa ngày xưa”, tức là đất nước đã có từ lâu lắm rồi. Từ trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mẹ thường hay kể cho ta bên cánh võng ầu ơ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” cũng gợi ta liên tưởng đến những câu mở đầu thường thấy trong các câu truyện cổ dân gian mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa. Đất nước ta lớn lên cùng truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc Câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi ta nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng . Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc n ra khỏi bờ cõi đã thể hiện tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử của cha ông ta. Đất nước còn là nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ. Từ thuở sơ khai, với truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”, “Lạc Long Quân và u Cơ” đã “ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” "Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và u Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng". Nguyễn Khoa Điềm đã thật sáng tạo trong ý thơ. Chỉ bằng một vài hình ảnh đã gợi ra những truyền thuyết xa xưa về nguồn cội dân mình. Dân tộc ta là con rồng, cháu tiên cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha Lạc Long Quân và mẹ u Cơ. Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, quen thuộc biết bao. Nhà thơ vận dụng rộng rãi nhiều chất liệu văn học dân gian từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết của nhân dân ta để cảm nhận về đất nước. Cách nói này vừa đậm đà tính dân tộc, vừa giàu tính trí tuệ mới mẻ. 3. Điểm thứ ba trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là sử dụng những yếu tố của phong tục tập quán người Việt Nam để cảm nhận về đất nước. Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với những câu tục ngữ, ca dao, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mà nó còn gắn với bề dày truyền thống văn hóa với những phong tục tập quán có từ ngàn đời xưa của cha ông ta "Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn". Hình ảnh miếng trầu gợi liên tưởng tới sự tíchtrầu cau, đến phong tục ăn trầu của người Việt. Nét đẹp văn hóa ấy cho đến ngày nay vẫn được bảo tồn, lưu giữ. Bởi từ xưa đối với người Việt ta miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người. Đất nước thật lớn lao kì vĩ lại được bắt đầu từ những điều nhỏ bé bình dị biết bao! Không chỉ có tục lệ ăn trầu, mà tục bới tóc sau đầu cũng là một nét đẹp văn hóa được nhà thơ gợi nhắc qua câu thơ "Tóc mẹ thì bới sau đầu" Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ đến lời ca dao "Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài bối rối lòng anh." Bới tóc sau đầu là là một thói quen đã trở thành tập tục từ ngàn đời xưa của dân ta. Hình ảnh người mẹ có bới tóc sau đầu gợi vẻ đẹp hồn hậu, giản dị, dịu dàng, nữ tính. Đây là nét đẹp văn hóa có sức sống lâu bền. Dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn. Theo tiến trình phát triển của đất nước, dân tộc ta tiến lên nền văn minh lúa nước gắn với nền sản xuất nông nghiệp. Người Việt ta từ xưa đã biết xây dựng nhà cửa để che mưa, trú nắng "Cái kèo, cái cột thành tên". Cái kèo, cái cột là những vật dụng quen thuộc khi dựng nhà của cha ông ta. Những vật dụng ấy đã được lấy để đặt tên cho con cái. Những cách đặt tên không cầu kì, hoa mĩ thể hiện được nếp sống hồn nhiên, giản dị của người xưa. Hình ảnh miếng trầu giản dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới sau đầu của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, nét đẹp văn hóa, thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam. Qua việc vận dụng đậm đặc, sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật trước mắt người đọc hình ảnh của một đất nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống quanh ta. Chất dân gian thấm sâu vào tư duy nghệ thuật, tư tưởng cảm xúc của nhà thơ trong Đất Nước tạo nên một dấu ấn độc đáo khó phai trong lòng mỗi bạn đọc yêu văn! Tác giả Bùi Thị Thu Phương/THPT Nguyễn Viết Xuân Để làm chủ bài văn, các em có thể đăng ký khóa học 10 NGÀY "CHẠY" VĂN của Học Văn chị Hiên nhé! ĐĂNG KÍ KHOÁ HỌC TẠI ĐÂY! Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH Fanpage Học văn chị Hiên Youtube Học văn chị Hiên - Youtube IG Học văn chị Hiên Tiktok Học văn chị Hiên Cảm nhận về đoạn thơ Đất Nước trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm, làm sáng tỏ nhận định Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ. Bình giảng khổ thơ thứ nhất đoạn trích Đất nước Tìm hiểu đoạn trích Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm Cảm nhận về hai đoạn thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm Tuối trẻ và tương lai đất nước - Lạm bàn về chí hướng của tuổi trẻ - Ngữ Văn 12 Cảm nhận của em về hình ảnh đất nước được thể hiện qua bài qua bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn Đề bài Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Dàn ý 1. MỞ BÀI - Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm Mặt đường khát vọng và đoạn thơ Đất Nước + Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. + Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. + Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương Đất nước của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con người. - Dẫn dắt nhận định Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ. 2. THÂN BÀI Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam vừa mới lạ với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn - Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam + Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,.... + Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích. - Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo + Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói... Ví dụ - "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" lấy ý từ bài ca dao "Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay "Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa" - "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" - "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" lấy ý từ bài ca dao "Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất..." ... + Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước" Ví dụ Truyến thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc", tinh thần uống nước nhớ nguồn "Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu ... Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm" - Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này. - Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ "Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại" 3. KẾT BÀI - Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả. - Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút. - Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc. Bài mẫu Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ tài năng thời chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta. Đọc các bài thơ được đưa vào học trong chương trình phổ thông vài thập niên gần đây của ông như Mẹ và Quả; Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ; đặc biệt là bài thơ Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng Ngữ văn 12, có thể khẳng định rằng khai thác chất liệu văn hoá dân gian, đặc biệt là văn học dân gian là “dấu vân tay”, là cá tính sáng tạo - nét phong cách nghệ thuật của tác giả, góp phần tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn ở thơ ông bởi “sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam”. Trong bài viết này, chúng tôi mong muốn chỉ ra các loại chất liệu văn hoá được nhà thơ tìm tòi,khai thác và hiệu ứng nghệ thuật của nó mang lại cho độc giả, tạo nên trường “cộng hưởng” khi thưởng thức cảm thụ bài thơ Đất Nước nói riêng, thơ Nguyễn Khoa Điềm nói chung. Bài thơ Đất Nước trích phần đầu chương V bản trường ca Mặt đường khát vọng, được sáng tác tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971, xuất bản 1974. Cảm hứng chủ đạo, tư tưởng bao trùm bài thơ làn“Đất nước là của nhân dân”. Theo đó bài thơ được sáng tác theo phương thức trữ tình- chính luận, có kết cấu 3 phần phần 1 Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?; phần 2 Đất Nước là gì ? phần 3 Đất Nước do ai làm ra? Khác với các nhà thơ khác viết về Đất nước - Tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và quy chiếu Đất Nước dưới 3 phương diện thời gian chiều dài ; không gian chiều rộng; văn hoá chiều sâu,nhất là chiều sâu văn hoá dân tộc. Trước hết, xin giới thuyết ngắn gọn khái niệm chất liệu văn hoá dân gian. Dựa theo Từ điển tiếng Việt, văn hoá dân gian là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong trường kì lịch sử thời xa xưa. Theo đó, chất liệu văn hoá dân gian là những giá trị, những sản phẩm cả vật chất lẫn tinh thần văn hoá vật thể và phi vật thể, đặc biệt là văn học dân gian góp phần tạo dựng, hun đúc nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Từ khái niệm ấy, soi chiếu vào bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy nhà thơ đã rất ý thức và có nhiều tìm tòi, khai thác vận dụng sáng tạo các giá trị, chất liệu văn hoá để làm nổi bật tư tưởng chủ đạo của bài thơ Đất Nước là của Nhân Dân, chứ không phải của các vương triều như quan niệm phong kiến ngày xưa. Ở phần đầu bài thơ Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?, nhà thơ tập trung khai thác chất liệu văn hoá dân gian qua các thể loại văn học dân gian, các sản phẩm văn hoá về phong tục,sản xuất, đặc biệt là ý nghĩa phồn thực của chúng làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” là mô tuýp mở đầu quen thuộc của truyên dân gian. Hai hình ảnh “miếng trầu” bà ăn và “búi tóc” sau đầu của mẹ gợi ra nhiều ý nghĩa. Đó không chỉ là tập tục lâu đời ở người Việt khác xa với người Hán, mà còn gợi ra bao giá trị văn hoá đặc sắc của người Việt. Gắn với mái tóc người phụ nữ có bao nhiêu câu tục ngữ, ca dao “Hàm răng mái tóc là góc con người”; “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi/ Để chi dài bối rối dạ anh”… Hay tục ăn trầu gắn với miếng trầu đã kết tinh trong nó bao nhiêu giá trị sâu xa. Miếng trầu nhỏ nhắn nhưng không thể thiếu trong các nghi lễ trang trọng hỏi cưới, giỗ chạp. Miếng trầu là vật xã giao “miếng trầu là đầu câu chuyện”; miếng trầu kết duyên tình nghĩa vợ chồng, anh em “miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”; miếng trầu còn là vật giao duyên tình chồng – vợ “Trầu này trầu tính trầu tình/ trầu loan trầu phụng, trầu mình lấy ta…” Chúng ta có cả một “văn hoá trầu”! Các hình ảnh “cái kèo cái cột, hạt gạo” là sản phẩm văn hoá vật chất gắn với thói quen ăn ở của người Việt và cả nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cụm từ “gừng cay - muối mặn” không chỉ phản ánh văn hoá “ẩm thực” của dân tộc ta mà còn gợi ra lối sống tình nghĩa thuỷ chung, được khai thác qua các câu ca dao - dân ca “Tay bưng đĩa muối chén gừng/ Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau”; hoặc “Muối đã mặn ngàn năm còn mặn/ Gừng đã cay muôn thuở còn cay…”. Thật là xúc động và thấm thía. Sang phần 2 “Đất Nước là gì?” nhà thơ lại có cách khai thác, tìm tòi các chất liệu văn hoá dân gian đặc sắc. Đó là tập trung chủ yếu vào văn học dân gian, kết hợp các giá trị văn hoá truyền thống với hiện đại trong trách nhiệm bổn phận của chúng ta hôm nay. Hình ảnh “chiếc khăn” trong câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy cảm hứng từ bài ca dao tình yêu “Khăn thương nhớ ai /khăn rơi xuống đất/ khăn thương nhớ ai /khăn vắt trên vai..” nhà thơ muốn chuyển tải thông điệp Đất Nước gắn với không gian sinh hoạt mỗi người, và cũng là “không gian tình yêu lứa đôi” . Hai câu dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc; con cá ngư ông móng nước biển khơi” không chỉ bộc lộ tình yêu với quê hương Bình – Trị - Thiên của mình, mà còn để chỉ ra rằng đất nước gắn với không gian miền xuôi, miền ngược; rừng núi và biển đảo, là không gian sinh tồn và đoàn tụ của 54 dân tộc anh em. Đáng chú ý là ở đoạn cuối phần thơ này, tác giả tập trung khai thác các truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Các hình ảnh “chim – rồng”, các nhân vật truyền thuyết “Lạc Long Quân- Âu Cơ”, “bọc trứng” gợi nhắc về cội nguồn tổ tiên cao quý đáng tự hào của dân tộc. Người Việt là “con Lạc cháu Hồng; con Rồng cháu Tiên". Câu thơ “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”, không chỉ nhắc nhớ về các thế hệ vua Hùng 18 đời có công dựng nước và giữ nước được đúc kết qua câu tục ngữ “Dù ai buôn ngược bán xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, mà còn ghi tạc đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của ông cha. Sang phần 3 – phần thể hiện tập trung cảm hứng chủ đạo bài thơ “Đất Nước là của Nhân Dân”, Nguyễn Khoa Điềm lại có cách khai thác, tìm tòi sáng tạo. Trong ý tưởng nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện không gian địa lí, nhà thơ đã tập trung tìm tòi khám phá sự giao thoa hoà quyện các truyền thuyết dân gian với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hoá. Truyện Sự tích núi Vọng Phu vả chăng được dệt nên từ danh thắng những hòn Vọng Phu suốt chiều dài đất nước, và để dân gian thổi vào đó tấm lòng thuỷ chung “chờ chồng nuôi con” của người phụ nữ Việt Nam? Rồi “hòn trống mái” cũng rất có thể như vậy. Chủ ý là khẳng định vẽ đẹp trong tình cảm vợ chồng luôn gắn bó son sắt bên nhau. Còn “gót ngựa Thánh Gióng; đất Tổ Hùng Vương” lại khái thác các truyền thuyết dân gian truyền thuyết Thánh Gióng và truyền thuyết các vua Hùng dựng nước và giữ nước. Một loạt tên các người dân Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, bà Điểm lại được nhà thơ quy chiếu gắn với các địa danh, sơn danh Nam Bộ cầu ông Đốc, ông Trang, núi bà Đen,chợ bà Điểm…. Để khẳng định nhân dân là người gánh đất nước trên dặm dài lịch sử oanh liệt của dân tộc, nhà thơ chỉ gợi ra vài chất liệu khái quát. Không phải ngẫu nhiên ở đoạn này ông lặp lại hai lần con số 4000 năm bốn nghìn năm Đất Nước, bốn nghìn lớp người. Thông điệp ngắn gọn nhân dân là người viết nên những trang sử vẻ vang trong suốt 4000 ngàn năm của dân tộc . Câu thơ “Khi có giặc người con trai ra trận” gợi nhắc bài ca dao “Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” có lẽ ra đời thời Lê – Mạc tương tàn. Câu thơ “Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” chính là câu tục ngữ “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để thể hiện truyền thống anh hùng, bất khuất của phụ nữ Việt Nam… Ở đoạn khẳng định nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm liệt kê hàng loạt các sản phẩm, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể do nhân dân tạo lập nên. Đó là nên văn minh nông nghiệp “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa; họ chuyền lửa qua mỗi nhà, họ đặp đập be bờ…”. Đó là giá trị tinh thần tâm linh “Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói, Họ gánh tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân”. Đoạn thơ cuối nhà thơ khai thá chiều sâu ý nghĩa trong nhiều bài ca dao – dân ca. Cụm từ “yêu em từ thuở trong nôi” lấy từ bài ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” để khẳng định tình cảm mãnh liệt, bền chặt, thuỷ chung của người Việt. Câu thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” là lấy ý tứ từ câu ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” muốn nhắn nhủ với chúng ta phải biết quý trọng công sức lao động. Câu thơ “Biết trồng tre… Đi trả thù không sợ dài lâu” lấy ý từ câu ca dao “Thù này ắt hẵn còn lâu/ Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què” là để nhắn nhủ mọi người chớ vội quên kẻ thù, mối thù ta đang chất chứa trong lòng. Người xưa có câu “Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn”. Tất cả góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách, lẽ sống của dân tộc ta. Tóm lại, tìm hiểu chất liệu văn hoá dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm góp phần giúp giáo viên và học sinh nhận diện các giá trị các sản phầm văn hóa dân gian, và sự tìm tòi khai thác sáng tạo đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện cảm hứng chủ đạo bài thơ "Đất Nước là của Nhân Dân” khi giảng dạy học tập bài thơ này nói riêng và một số bài thơ khác có khai thác sử dụng văn hóa dân gian nước ta nói chung. Tìm hiểu chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ góp phần tô đậm “dấu vân tay” trong cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ của tác giả qua nghệ thuật chắt lọc tinh tế, sâu sắc văn hoá dân gian của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời khẳng định một chân lí “văn hóa dân gian là bầu sữa nuôi dưỡng sự sáng tạo và tài năng nghệ thuật” văn nghệ sỹ. Nguồn sưu tầm Chia sẻ Bình luận Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Tư tưởng Đất Nước của nhân dân trong đoạn trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm Trả lời a. Giải thích khái niệm “Tư tưởng Đất Nước của nhân dân” Phân tích bài thơ Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm Đất nước” là một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu nước trong mỗi một con người Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về các trích đoạn trong bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi...Đất Nước có từ ngày đó”. Phân tích đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Tư tưởng đất nước của nhân dân trong đoạn trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm Năm 1971, chiến trường Bình Trị Thiên hừng hực bão lửa của bom đạn, chiến tranh báo hiệu của một mùa hè 1972 đỏ lửa. Trong không khí sôi sục của thời đại đánh Mỹ trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã nung nấu và ra đời. Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 12 - Xem ngay Báo lỗi - Góp ý Bài văn mẫu lớp 12Những bài văn mẫu hay lớp 12Văn mẫu lớp 12 Ý nghĩa của việc sử dụng chất liệu văn học và văn hóa dân gian trong đoạn trích “Đất nước" của trường ca “Mặt đường khát vọng” dưới đây gồm nhiều dạng văn mẫu được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh cùng quý thầy cô tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham nghĩa của việc sử dụng chất liệu văn học và văn hóa dân gian trong đoạn trích “Đất nước" của trường ca “Mặt đường khát vọng”Nhắc đến những kiệt tác có tầm vóc về đất nước Nam quốc sơn hà ?, Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi hay những bài thơ khá nổi tiếng như Đất nước Nguyễn Đình Thi, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng Chế Lan Viên... có lẽ, khi viết về đất nước, người ta không chỉ có cảm mà còn có nghĩ, chính những cách riêng đó sẽ tạo ra những nét riêng của từng tác giả. Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, Đất nước của ông không chỉ được triển khai trên các bình diện không gian và thời gian mà quan trọng hơn cả là bình diện văn hóa, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Đó là Đất nước của nhân Đất nước trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình, dựa trên những truyền thống, văn hóa, lịch sử ngàn đời của dân tộc. Đi sâu vào tìm hiểu đoạn trích, chúng ra sẽ thấy rõ điều thể thấy toàn bộ chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của vãn hóa dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu đủ sức gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất thể xem phần đầu bài thơ là một định nghĩa về đất nước theo cách riêng của nhà thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động và đầy sức gợi cảm Theo tác giả, Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sông bình dị của mỗi con người. Đất nước hiện hình lên qua những câu chuyện kể của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ngày nước không phải là những gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần đất nước”Rất khéo léo, tác giả đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của Đất nước“Em ơi! em, Đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất nước muôn đời"Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống, lịch sử văn hóa, phong tục ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa của các thành tố Đất và Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện tại, Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hóa của đất nước được gợi lên từ huyền thọai Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày Giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc. Ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thông, văn hóa, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền quá khứ với hiện tại và tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ.“Những ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sauHàng năm ăn đâu làm đâuCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"Nguyễn Khoa Điềm sử dụng chất liệu dân gian không chỉ thể hiện lòng yêu đất nước mà thông qua đó tác giả còn tập trung làm nổi bật tư tưởng Đất nước của nhân tưởng Đất nước của nhân dân đã đem đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần túy nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, những số phận của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”Cả đến “con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Ớ đây, cảnh vật thiên nhiên, đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dâu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, hiện tượng cụ thể nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mong một bóng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta"Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phổi cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách, nhà thơ đặc biệt ngợi ca những con người vô danh, bình dị, rất đỗi bình thường"Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất nước”Những con người vô danh và bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói dân tộc cho đến cả tên làng, tên xã… Họ cũng là những người khi “Có ngoại xâm thì chông ngoại xâm - có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Và cứ như thế, mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo"Đất nước này là đất nước của nhân dânĐất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại"Dù cảm nhận ở nhiều phương diện thì đất nước vẫn là sự thống nhất của văn hóa, truyền thống, phong tục. Vì thế mỗi cá nhân không chỉ thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân mà mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn và phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp vậy, đọc Đất nước, có thể thấy rõ hơn bản sắc văn hóa của dân tộc. Đồng thời, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vừa là khúc trữ tình yêu nước vừa là sự định nghĩa về đất nước, có sức mạnh truyền cảm to lớn đến cả khối óc và trái tim người đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12 Ý nghĩa của việc sử dụng chất liệu văn học và văn hóa dân gian trong đoạn trích “Đất nước" của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 12 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn tiếp theo Anh chị hãy phân tích nét phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong chương Đất nước Đề bài Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước - Nguyễn Khoa ĐiềmDÀN BÀI GỢI Ý1. MỞ BÀI GIỚI THIỆU CHUNG- Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và đoạn thơ Đất Nước+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.+ Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.+ Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương "Đất nước" của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con Dẫn dắt nhận định Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới THÂN BÀINhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam vừa mới lạ với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn- Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam + Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,....+ Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích. - Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo + Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói...Ví dụ~ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" lấy ý từ bài ca dao "Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay "Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa"~ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"+ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" lấy ý từ bài ca dao "Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất..."...+ Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước"Ví dụ Truyến thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc", tinh thần uống nước nhớ nguồn "Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu...Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ "Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại"3. KẾT BÀI- Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc. Văn hóa dân gian là bộ phận không thể tách rời của di sản văn hóa quốc gia, thể hiện sự đa dạng và phong phú của tinh hoa dân tộc. Chất liệu văn hóa dân gian là những tài liệu, vật phẩm, phong tục, hình ảnh, âm nhạc, truyền thuyết, và các giá trị tinh thần khác được lưu truyền qua hàng thế hệ. Bài viết này sẽ giới thiệu và khám phá những chất liệu văn hóa dân gian đặc sắc trong đất nước của chúng ta, nhằm tôn vinh và giữ gìn di sản quý giá này. Truyền thuyết và ca dao Truyền thuyết và ca dao là hai hình thức văn hóa dân gian được lưu truyền từ bao đời nay. Chúng không chỉ thể hiện sự sáng tạo và tài hoa của người dân, mà còn là bài học lịch sử, đạo đức và triết lý sống. Truyền thuyết và ca dao phản ánh tâm hồn dân tộc, sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội, và niềm tin tôn giáo của mỗi miền đất. Lễ hội dân gian Lễ hội dân gian là những sự kiện văn hóa đặc trưng của từng vùng miền trong đất nước. Chúng thể hiện niềm vui, sự đoàn kết, và tín ngưỡng của người dân, đồng thời là cơ hội để các nghệ nhân, nghệ sĩ thể hiện tài năng và sự sáng tạo. Các lễ hội dân gian như Đua bò Bảy Núi, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Lim, hay Lễ hội Chùa Hương là những minh chứng sống động cho sự phong phú và đa dạng của di sản văn hóa dân gian. Nghệ thuật biểu diễn dân gian Nghệ thuật biểu diễn dân gian là một hình thức văn hóa đặc sắc, thể hiện sự sáng tạo và tinh hoa của người dân. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian như hát chèo, hát xẩm, tuồng, ca trù, dân ca quan họ, múa lân, và hát bội không chỉ giúp giải trí, mà còn góp phần gìn giữ và truyền bá di sản văn hóa dân gian. Những biểu diễn này thể hiện tài năng của nghệ sĩ, sự đa dạng văn hóa của từng vùng miền, và niềm tự hào dân tộc. Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian là minh chứng cho sự khéo léo, tài hoa và óc sáng tạo của người dân. Các sản phẩm thủ công như gốm sứ, đồ mộc, dệt may, đan lát, và khảm trai không chỉ đẹp mắt và hữu ích, mà còn mang đậm bản sắc văn hóa của từng vùng miền. Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian hiện nay được rất nhiều người ưa chuộng và sử dụng, không chỉ trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Ẩm thực dân gian Ẩm thực dân gian là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa quốc gia. Mỗi vùng miền có những đặc sản ẩm thực độc đáo, phong phú và hấp dẫn, tạo nên bản sắc ẩm thực đặc trưng của đất nước. Các món ăn dân gian như phở, bánh mì, bún chả, bánh xèo, nem cuốn, và cơm tấm không chỉ ngon miệng, mà còn thể hiện sự đa dạng văn hóa và sáng tạo của người dân. Chất liệu văn hóa dân gian trong đất nước là những giá trị quý giá được lưu truyền qua hàng thế hệ, thể hiện sự đa dạng và phong phú của di sản văn hóa quốc gia. Việc gìn giữ và phát huy những chất liệu văn hóa dân gian này không chỉ giúp tôn vinh bản sắc dân tộc, mà còn góp phần nâng cao đời sống tinh thần và tạo nên sự hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Hãy cùng nhau bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân gian trong đất nước của chúng ta.

chất liệu văn hóa dân gian trong đất nước